Cuộc đời Thánh nữ Têrêsa
“Têrêsa” với tên đầy đủ là “Têrêsa Hài Đồng Giêsu”. Thánh nữ sinh ra ở Alencon, Pháp năm 1873. Thân phụ Louis Martin và thân mẫu Zelie – Marie – Guérin đều sinh ra trong gia đình Công giáo đạo đức, họ từng có ý hướng dâng mình Chúa nhưng vì nhiều nguyên nhân nên không tròn ước nguyện, sau nên duyên vợ chồng. Họ sinh 9 người con, 2 nam 7 nữ. Hai người con trai sớm về với Chúa khi còn nhỏ, con gái chỉ còn lại 5 người (hai người con gái khác đã mất), Têrêsa là con út trong nhà.
Ban đầu bà Martin cầu xin mong có nhiều con trai để dâng cho Chúa, nhưng không thành vì con trai mất sớm. Hiểu được thánh ý Chúa, họ không cầu xin điều đó nữa. Không ngờ cô con gái út ốm yếu lại làm nên sự nghiệp vĩ đại huy hoàng. Thánh ý Chúa nhiệm mầu, đường lối Người không ai nghĩ tới.
Cô bé Têrêsa thông minh lanh lợi được ba mẹ yêu thương. Chịu ảnh hưởng nền giáo dục gia đình, từ tấm bé Têrêsa đã yêu Chúa nồng nàn. Một lần lúc 2 tuổi, Têrêsa đòi theo ba mẹ đi lễ nhưng không được vì còn quá nhỏ, nhưng cô bé khóc và chạy theo dưới mưa. Lớn thêm một tí, cô bé hay thường đọc kinh ca ngợi Chúa trong lúc chơi. Khi nhìn thấy ngôi sao có hình chữ T trên bầu trời, Têrêsa nói: “Tên con đã được ghi trên trời”. Khi cùng Cha đi câu cá, nhìn mọi vật trước mắt, Têrêsa đưa tâm hồn về quê trời vĩnh cửu; lúc đi học về Têrêsa vào phòng riêng ẩn mình trong mùng suy ngẫm về cuộc đời ngắn ngủi này và Nước Trời hằng sống. Dù chịu ảnh hưởng của giáo dục gia đình nhưng nếu không có ơn đặc biệt của Chúa làm sao có được những tư tưởng vượt ra khỏi thế tục như vậy được ?
Mẹ của Têrêsa qua đời năm chị 4 tuổi rưỡi, Cha cô bé dọn về Lisieux sống cùng với gia đình cậu, với hy vọng các cô con gái sẽ được chăm sóc chu đáo. Cậu của Têrêsa là dược sĩ và là một tín hữu sốt sắng.
Năm 9 tuổi, Têrêsa mắc bệnh lạ, mỗi lần phát bệnh hầu như bất tỉnh, mọi người đều tưởng là không còn hy vọng. Một ngày, Têrêsa phát ra những âm thanh lạ, như gần chết. Các chị hết sức đau buồn cùng quỳ gối cầu nguyện. Têrêsa bất ngờ nhìn thấy tượng Đức Mẹ đặt ở góc nhà mỉm cười với cô cách dịu dàng và nhân hậu, thật không thể diễn tả hết. Thánh nữ cảm động không ngừng rơi nước mắt. Các chị thấy vậy biết là Têrêsa đã nhìn thấy Đức Mẹ mà được ơn, cùng nói lên rằng: “em đã được chữa lành”. Và cũng từ ngày hôm ấy, Têrêsa khỏi bệnh cách kỳ lạ và ngày càng khỏe mạnh.
Từ ngày mất mẹ, Têrêsa được chị Pauline chăm sóc, nhưng chị Pauline đã vào dòng Carmel trước khi Têrêsa mắc bệnh. Thế nên chị Marie chăm sóc Têrêsa , vài năm sau, chị Cả Marie cũng vào dòng Carmel, chị thứ ba thì vào dòng Đức Bà thăm viếng. Têrêsa ước muốn đi tu từ tấm bé. Năm 9 tuổi đã tỏ lộ cho mẹ Bề trên dòng Carmel biết nguyện vọng này, nhưng mẹ bề trên nói chị còn quá bé, luật dòng không cho phép. Đến năm 14 tuổi rưỡi, sau khi đắn đo suy nghĩ, Têrêsa bày tỏ nguyện vọng này cho Cha của mình, ông Martin rất buồn về điều đó nhưng không muốn ngăn cản ơn gọi của cô con gái bé nhỏ, đành chấp nhận để cô vào dòng. Khi ngắt một đóa hoa trắng nhỏ cho Têrêsa , ông nói: “Chúa đã chu đáo chăm sóc cho bông hoa trắng nhỏ này lớn lên cho đến ngày hôm nay.” Nhưng cậu của Têrêsa cho rằng cô hãy còn nhỏ tuổi, không đủ sức khỏe, lại vào một dòng nghiêm khắc như vậy thật không hợp, nếu không có phép lạ thì ông quyết không đồng ý. Nghe vậy, chị thánh van nài cùng Chúa thay đổi lòng cậu. Một lần đi gặp cậu, không ngờ cậu đã thay đổi ý định và nói Têrêsa là đóa hoa dành cho Chúa, cậu không còn phản đối nữa.
Thân phụ Têrêsa đưa chị đến gặp Đức Giám mục Bayeux, nghe xong, Ngài rất kinh ngạc, tuy là Giám mục nhưng Ngài vẫn không có quyền quyết định, cần phải thông qua sự đồng ý của Mẹ bề trên dòng Carmel. Têrêsa đã không ngừng khóc vì biết Mẹ bề trên không đồng ý. Đức Cha khuyên Têrêsa đến tiếp kiến Đức Giáo Hoàng, may ra còn hy vọng.
Thế là cha chị thánh đưa Têrêsa và chị Celine đi hành hương RôMa, gặp Đức Giáo Hoàng Lêô 13. Theo qui định, vì người quá đông nên không đuợc phép nói chuyện với Đức Thánh Cha, nhưng không muốn mất cơ hội, Têrêsa quỳ khóc dưới chân Đức Thánh Cha, xin được ban đặc ân nhân dịp Kim Khánh Linh mục của ngài, đặc chuẩn cho chị được vào dòng Carmel ở tuổi 15. Thấy vậy, Đức Cha Bayeux không lấy làm hài lòng. Đức Thánh Cha khuyên Têrêsa về việc này nên nghe theo các bậc bề trên, và an ủi chị: “Con đừng buồn, nếu Chúa muốn, Ngài sẽ cho con được toại nguyện”, và Ngài ban phép lành cho chị. Khi Têrêsa đứng dậy, nhìn từ phía sau, Đức Thánh Cha biết đây không phải là một người tầm thường. Cuối cùng Têrêsa cũng đạt được ước nguyện, ngày 9/4/1888 chị nhập Tập viện đan viện Carmel năm 15 tuổi.
Từ thời Trung Cổ, Giáo hội có truyền thống hy sinh khổ chế, đánh tội. Luật dòng Carmel rất nghiêm ngặc về mặt này. Ban đầu thánh nữ tuân theo quy tắc này cách triệt để, nhưng sau đó vì bị thánh giá vòng gai sắc đeo trước ngực đâm vào người mà ngả bệnh, thánh nữ cảm nghiệm được cách khổ hình này không hợp với chị, và phát hiện ra bí quyết cho con đường nên thánh của mình. Thánh nữ nghĩ rằng: khoa học ngày nay phát triển, văn minh tiến bộ, người ta có thể dùng đến thang máy, chẳng lẽ đường lên nước trời lại không có cách khác sao? Nhớ đến lời Kinh Thánh viết: “ai là kẻ nhỏ nhất hãy đến với ta”. Tiên tri Isaia có viết: “Ta sẽ đặt các ngươi vào lòng, nâng niu trên đầu gối, như người mẹ yêu thương con thế nào, Ta cũng sẽ yêu thương các ngươi như vậy.” Tâm hồn trẻ thơ thuần khiết không bị ô nhơ bởi tội, đó là tâm hồn đơn sơ, bay bổng, một tấm lòng yêu ba mẹ, cậy dựa vào Chúa. Như con thơ yêu thương nép mình nơi ba mẹ, ta lại không được Chúa yêu thương sao?” Bí quyết nên thánh mà thánh nữ chọn cho mình là “con đường thơ ấu thiêng liêng”.
Tuy nhiên, con đường thơ ấu thiêng liêng này không dễ thi hành, mà ta cần phải không ngừng khổ chế, mến Chúa yêu người mới đuợc. Bề ngoài mà nói lối tu đức này không thấm vào đâu nhưng thực tế tốn nhiều hy sinh và tâm sức, khác với cách thức của các bậc thánh nhân khác.
Thánh nữ đã sống như vậy trong dòng Carmel Lisieux 9 năm, năm cuối đời dù mắc bệnh thổ huyết nhưng chị vẫn cố gắng đến hơi thở cuối cùng. Ngày 30/9/1897, thánh nữ rời bỏ thế gian về với Chúa lúc 24 năm 9 tháng tuổi đời. Năm 1923, Đức Giáo Hoàng tôn chị lên hàng chân phước và 2 năm sau được tôn phong hiển thánh. Năm 1997 được nâng lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.
Trong phút lâm chung, chị thánh hứa rằng sẽ phù trì và giáng phúc cho thế gian.
Chị thánh rất ưa thích hương vị hoa hồng, là tượng trưng cho đức bác ái. Chị nói: “Sau khi chết em sẽ cho mưa hoa hồng xuống trên mặt đất.” Và khi chết đi, chị đã mưa xuống hoa hồng. Đó là phép lạ của một cô bé ốm yếu, quả là kỳ diệu từ xưa đến nay, chị không chỉ là kho báu của Giáo hội, mà còn là người Chúa yêu mến và là mẫu gương của Giáo hội.